ThS. Nguyễn Thị Hồng Thủy – Bộ môn Xã Hội Học – Khoa KHXH&NV
1. Đặt vấn đề:
Có thể nói, gia đình một thời được coi là nơi yên bình nhất của con người, là nơi mà con người tìm được sự chia sẻ và yêu thương, là nơi tiếp sức cho con người có nhiều nghị lực để vượt qua những áp lực trong công việc và các thử thách hay khó khăn bên ngoài xã hội. Quan hệ gia đình giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, anh chị em với nhau là quan hệ tình cảm thiêng liêng và ấm áp. Từ trước đến nay, gia đình luôn luôn được coi là tổ ấm, là nơi thỏa mãn những nhu cầu tình cảm và vật chất của các thành viên và bảo vệ họ trước những căng thẳng trong cuộc sống.
Chính vì vậy, sự xuất hiện ngày càng mạnh mẽ của hiện tượng bạo lực gia đình đã làm cho rất nhiều thành viên trong các gia đình rơi vào trạng thái bất ổn thật sự. Sự gia tăng của nạn bạo lực gia đình đang nhận được rất nhiều sự quan tâm, lo lắng của dư luận xã hội. Chốn ẩn nấp trong gia đình không còn bình lặng vì sự xuất hiện ngày càng gia tăng cũa nạn gia tăng bạo lực đã để lại nhiều nỗi đau về cả vật chất lẫn tinh thần cho người vợ, trẻ em, những nạn nhân được coi là đối tượng chịu nhiều hậu quả trực tiếp và nặng nề của bạo lực gia đình.
Trong xã hội hiện nay, bạo lực gia đình diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau như đánh đập, hành hạ, gây thương tích cho nạn nhân, cưỡng hiếp, khủng bố tinh thần, cô lập nạn nhân trước những mối quan hệ gia đình cũnh như xã hội, bao vây kinh tế, kiểm soát tiền bạc…Những hành vi bạo lực đó gây ra những tiêu cực về mặt xã hội, dẫn đến sự bất ổn trong quá trình phát triển của gia đình và xã hội.
Bạo lực trong gia đình có thể diễn ra dưới nhiều hình thức và giữa các thành viên khác nhau trong gia đình nhưng trong khuôn khổ bài viết này tôi xin đề cập đến hiện tượng bạo lực gia đình của người chồng đối với người vợ. Đây được coi là dạng bạo lực gia đình điển hình và nhận được sự quan tâm và lo lắng của mọi thành viên trong xã hội.
Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của các thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong gia đình. Khái niệm về bạo lực gia đình có rất nhiều khái niệm khác nhau nhưng khái niệm bạo lực gia đình của Liện Hiệp Quốc thông qua năm 1993 được các tổ chức cũng như nhà khoa học trên thế giới chấp nhận rộng rãi. Theo đó: “Bạo lực chống lại phụ nữ là bất kỳ hành động bạo lực trên cơ sở giới nào dẫn đến hoặc có thể dẫn đến những tổn thất về thân thể, tâm lý hay tình dục hay những đau khổ của phụ nữ, bao gồm cả sự đe dọa có những hành động như vậy, việc cưỡng bức hay tước đoạt sự tự do, dù ở nơi công cộng hay trong cuộc sống riêng tư.” [7]
Bạo lực gia đình chống lại phụ nữ đang xảy ra ở khắp nơi trên thế giới với những dạng thức tinh vi không phân biệt dân tộc, màu da, tầng lớp, lứa tuổi, trình độ văn hóa, địa vị xã hội. Ngay cả những nước được coi là phát triển văn minh ở Châu Âu, Châu Mỹ vẫn có không ít phụ nữ vẫn phải chịu sự bạo hành của người chồng và các thành viên khác trong gia đình.
Theo số liệu điều tra năm 2001, hơn nửa triệu phụ nữ Mỹ (588.490 phụ nữ) chết do bạo lực gia đình bởi người chồng của họ. Có khoảng 85% nạn nhân của bạo lực gia đình (588.490 tổng) là nữ, chỉ có xấp xỉ 15% (103.220 tổng) nạn nhân là nam. Trong năm 2001, bạo lực gây tội nghiêm trọng của chồng đối với vợ tăng 20%, số vụ bạo lực của vợ đối với chồng tăng 3% trong tổng số những vụ nghiêm trọng đối với đàn ông. Trung bình mỗi ngày có hơn ba phụ nữ bị giết bởi người chồng hoặc bạn trai của họ. Năm 2000, có 1.247 phụ nữ bị giết bởi chồng mình. Ở Pháp, cũng cho thấy tỷ lệ phụ nữ bị chồng ngược đãi là 2.5% tức khỏang 1.5 triệu người. Theo Liên Đoàn đoàn kết phụ nữ quốc gia Pháp nhận định: “Chỉ riêng tại Paris, kinh đô ánh sáng của văn minh nhân loại đã có 60 phụ nữ bị chồng hay người tình đánh chết mỗi năm”. Trên cả nước Pháp có 450 phụ nữ chết do bạo hành thể xác hay bạo hành tinh thần trong gia đình. [7]
Ở Việt Nam, chưa có cuộc khảo sát trên toàn quốc về tình trạng bạo lực gia đình. Theo báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, từ ngày 1/1/2000 đến 31/12/2005 các tòa án địa phương trong cả nước đã thụ lý và giải quyết sơ thẩm 352.047 vụ việc về lĩnh vực hôn nhân gia đình. Trong đó có tới 39.730 vụ ly hôn do bạo lực gia đình, chiếm tới 53.1% tổng số vụ ly hôn. Riêng năm 2005, có tới 39.730 vụ ly hôn trong tổng số 65.929 vụ án về hôn nhân gia đình chiếm tỷ lệ là 60.3%. Trên địa bàn Hà Nội từ tháng 1/2000 đến tháng 9/2000, trung tâm cảnh sát 113 đã nhận được 517 tin tố cáo, cầu cứu của nạn nhân bạo lực gia đình. Theo số liệu chưa thống kê đầy đủ năm 2008, tỉnh Long an có 293 vụ bạo lực gia đình được đưa ra xét xử, trong đó có 38 vụ chuyển sang hình sự, còn lại 355 vụ ly hôn do có hành vi bạo lực gia đình. [8]
Một điều tra khác ở 8 tỉnh Hội lien hiệp Phụ Nữ vào năm 2008, có 23% số gia đình được hỏi có hành vi bạo hành về thể chất, 30% số gia đình có bạo lực về tình dục và 25% số gia đình được hỏi có hành vi bạo lực về tinh thần trong đó phụ nữ là nạn nhân chiếm 97%. [6, tr.98]
Trong thời gian gần đây hang loạt các bài báo đăng trên các phương tiện truyền thông đại chúng đã gây ra sự bức xúc và phẫn nộ của các thành viên trong xã hội về sự gia tăng của vấn đề bạo lực gia đình. Chúng ta có thể liệt kê một số bài báo sau đây: “Khống chế, đổ thuốc diệt cỏ vào miệng vợ” đăng trên báo Thanh Niên ra ngày 05/07/2003; “Kẻ giết vợ dã man” đăng trên báo Phụ Nữ Việt Nam ra ngày 08/09/2003; “Đổ xăng đốt vợ” trên báo Công An Nhân Dân ra ngày 07/12/2002 và “Thảm cảnh gia đình” trên Tuổi Trẻ online ngày 23/07/2010.
Những bài báo trên đã mô tả những hành động dã man, vô nhân tính của người chồng đối với người vợ và những bi kịch gia đình đau lòng sau những vụ bạo hành ấy. Trên đây chỉ là những hành vi bạo lực gia đình đã được phát hiện và xử lý, còn trong thực tế có rất nhiều nạn nhân đang phải sống chung với bạo lực gia đình mà đối tượng gây ra bạo lực không ai khác là những thành viên gần gũi nhất trong gia đình thì chưa được trừng trị nghiêm minh của pháp luật.
Hậu quả của bạo lực gây ra là một nỗi đau đặc biệt nghiêm trọng, nó không chỉ gây tổn thương đến cuộc sống, sức khỏe, danh dự của các thành viên trong gia đình mà còn vi phạm tới các chuẩn mực đạo đức xã hội, tiếp tay cho sự gia tăng các tệ nạn như: mại dâm, ma túy, người lang thang, tội phạm vị thành niện, nạn buôn bán trẻ em và phụ nữ…
Xét trên góc độ xử lý các trường hợp có hành vi bạo lực trong gia đình, pháp luật đã có những qui định cụ thể và những trường hợp được phát hiện đều đã xử lý thật nghiêm minh. Có thể liệt kê một số qui định của nhà nước đối với hành vi bạo lực gia đình đó là Luật phòng, chống bạo lực gia đình (có hiệu lực từ ngày 1/7/2008) đã qui định rất cụ thể hành vi nào được xem là bạo lực gia đình. Ngoài ra, trong xử lý hình sự thì điều luật 151 của Bộ luật hình sự cũng đã thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật đối với những kẻ có hành vi bạo lực gia đình. Luật thì đã rõ như vậy rồi nhưng thực tế bao nhiêu người bị bạo hành được pháp luật bảo vệ và đến khi nào thì những kẻ bạo hành mới run tay vì sợ sự trừng phạt của luật pháp khi gây ra hành vi bạo lực mới là sự quan tâm và mong đợi của xã hội.
Ở bài viết này chúng tôi xin đi vào phân tích một số nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng bạo lực trong gia đình. Trên cơ sở đó chúng tôi đề xuất một số giải pháp trên cơ sở các nguyên nhân đã phân tích.
2. Một số nguyên nhân gây ra tình trạng bạo lực trong gia đình
2.1 Nguyên nhân về mặt quản lý nhà nước
Có thể nói các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương do chưa xây dựng được phương án điều tra thực trạng bạo lực gia đình một cách đồng bộ và sâu rộng nên chưa có các kế hoạch và giải pháp cụ thể. Hình thức đưa ra để giảm bớt bạo lực gia đình hiện nay chủ yếu tập trung vào công tác tuyên truyền giáo dục, chưa có phân bố đầy đủ cán bộ chuyên trách công tác gia đình ở cơ sở, hầu hết các địa phương đang phân công cán bộ xã hội văn hóa kiêm nhiệm nên việc tổ chức phòng chống bạo lực gia đình chưa cao. Tại các cơ sở địa phương nơi có hành vi bạo lực gia đình diễn ra, việc thiết lập và vận hành cơ chế phòng chống gia đình chưa hiệu quả, còn rất nhiều hành vi bạo lực gia đình đang diễn ra trong cộng đồng xã hội chưa bị phát hiện và ngăn chặn kịp thời nên rất nhiều hành vi khi đã phát hiện thì hậu quả xảy ra đã rất nghiêm trọng và muộn màng.
Tại Việt Nam, Luật phòng chống bạo lực gia đình đã được quốc hội thông qua năm 2007, có hiệu lực từ ngày 01/0702008 nhưng việc thực hiện vẫn còn khó khăn, việc tuyên truyền, giáo dục chưa đạt được nhiều thành công. Vẫn còn rất nhiều thành viên trong xã hội quan niệm bạo lực gia đình là chuyện riêng của từng gia đình, vì vậy mà việc xử lý và phát hiện nhằm ngăn chặn bạo lực xảy ra vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn và bất cập.
2.2 Nguyên nhân về mặt xã hội
Có thể nói, một nguyên nhân khác của nạn bạo lực gia đình là do tình trạng bất bình đẳng giới còn tồn tại trong gia đình và ngoài xã hội. Có thể nói rằng chính sự bất bình đẳng sâu sắc trong quan hệ giới và tư tưởng trọng nam khinh nữ là nguyên nhân sâu xa và xuyên suốt các vụ bạo lực trong gia đình. Bởi lẽ, từ xưa đến nay, trong gia đình, quyền uy của người đàn ông luôn cao hơn người phụ nữ. Dựa vào quyền ấy, nhiều ông chồng tự cho mình được đánh vợ, coi đánh vợ như là một sự giáo dục và thể hiện quyền lực của kẻ bề trên đối với kẻ bề dưới. Cũng chính vì tư tưởng trọng nam khinh nữ còn tồn tại trong tư tưởng của rất nhiều người nên rất nhiều phụ nữ bị chồng đánh đập vẫn cam chịu và chấp nhận chung sống mà không dám đấu tranh giải phóng cho mình.
3. Hậu quả xã hội của bạo lưc gia đình
Bạo lực gia đình để lại rất nhiều hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, dưới góc độ xã hội học, chúng tôi xin đưa ra một số hậu quả chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, bạo lực gia đình gây ra những hậu quả nghiêm trọng về thể xác và tinh thần đối với phụ nữ và tất cả các thành viên khác trong gia đình. Những hậu quả này chất thêm gánh nặng cho hệ thống y tế quốc gia. Bởi lẽ, các phụ nữ bị bạo hành gia đình phải cần đến các dịch vụ chăm sóc y tế cao hơn nhiều so với phụ nữ bình thường. Nó không những làm tổn thương về thể xác, tinh thần mà còn liên quan chặt chẽ đến vị trí, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội.
Thứ hai, bạo lực gia đình chống lại phụ nữ tác động tiêu cực đến lực lượng lao động và do đó cũng tác động đến các hoạt động kinh tế của nạn nhân bạo hành. Phụ nữ là nạn nhân chủ yếu của hành vi bạo lực, và sau mỗi hành vi bạo lực gây ra từ người chồng thì sức khỏe của phụ nữ ngày càng giảm sút và việc phải nghỉ làm để điều trị vết thương là điều không thể tránh khỏi đã ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình họ nói riêng và xã hội nói chung. Một nghiên cúu về bạo lực gia đình trên phạm vi quốc gia thực hiện ở Ca Na Đa cho thấy có 30% số người vợ bị chồng đánh đập phải bỏ việc do chấn thương về thể chất và tinh thần và 50% trong số họ phải nghỉ ốm để điều trị. [9, tr.239]
Thứ ba, bạo lực gia đình đã chất thêm gánh nặng cho hệ thống giáo dục. Bởi lẽ, trẻ em là những thành viên sống chung trong gia đình nếu thường xuyên chứng kiến cảnh bố hành hạ, đánh đập mẹ thường có những rối loạn tâm lý và sa sút trong học tập. Trẻ thường có các biểu hiện như trầm cảm, buông xuôi mọi thứ và trong một số trường hợp trẻ có những hành vi tiêu cực để chống lại sự bạo lực gia đình đó.
Bạo lực gia đình tác động rất xấu tới sự phát triển thể chất, trí tuệ và đạo đức của trẻ em. Bạo lực gia đình khiến trẻ em khủng hoảng, mất ngủ, sợ hãi, thiếu tự tin, thất vọng, ảnh hưởng nặng nề đến việc học tập, kỹ năng sống, hòa nhập xã hội của trẻ em. Ở một số nước trên thế giới, nhà trường phải tuyển dụng thêm những giáo viên hoặc chuyên gia tâm lý để hỗ trợ những học sinh là nạn nhân hoặc phải sống trong môi trường bạo lực gia đình. Nếu những đứa trẻ này không được quan tâm và giáo dục đúng mức thì các em có thể trở thành những đứa trẻ hư làm gia tăng tỷ lệ tội phạm vị thành niên, tệ nạn xã hội, chất thêm gánh nặng lên vai các nhà quản lý xã hội.
Thứ tư, bạo lực gia đình còn chất thêm gánh năng lên vai các cơ quan tư pháp. Điều này thể hiện qua việc pháp luật của hầu hết các quốc gia hiện đã xếp các hình thức bạo lực gia đình ở những mức độ khác nhau là những hành vi vi phạm phám luật. Chính vì vậy, khi có hành vi bạo lực xảy ra, các quan quan pháp luật phải vào cuộc điều tra, xét xử, có rất nhiều vụ án là hậu quả của bạo lực gia đình tốn rất nhiều công sức, thời gian, nhân lực của nhà nước, Ngoài ra, việc giáo dục, giam giữ các đối tượng gây ra bạo lực gia đình cũng là gánh nặng cho các cơ quan tư pháp.
Bên cạnh đó, bạo lực gia đình cũng làm gia tăng số trẻ em vi phạm pháp luật. Số liệu thống kê của viện kiểm soát nhân nhân tối cao năm 2008 cho thấy 71% trẻ em phạm pháp là do không được quan tâm, chăm sóc đúng mức. Trong đó nguyên nhân phạm tội của trẻ xuất phát từ bi kịch của chính gia đình nơi trẻ sinh sống: 8% trẻ phạm tội có bố mẹ li hôn, 49% phàn nàn về cách đối xử của bố mẹ. Theo số liệu điều tra 2.209 học viên các trường giáo dưỡng, có tới 49.81% trong số này sống trong cảnh bị đối xử hà khắc, thô bạo, độc ác của bố mẹ. [8]
4. Kết luận và một số giải pháp
4.1 Kết luận
Bạo lực gia đình là một vấn đề của gia đình, cộng đồng và xã hội. Vì vậy, chúng ta cần sớm xây dựng những giải pháp đồng bộ để ngăn chặn cũng như loại bỏ tệ nạn này ra khỏi cộng đồng văn hóa xã hội. Bạo lực gia đình để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho gia đình và xã hội. Do đó mà việc xóa bỏ bạo lực gia đình không chỉ là trách nhiệm của riêng ai mà đòi hỏi phải có sự phối hợp của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội vá quốc gia trong phòng, chống bạo lực gia đình. Chỉ khi nào công tác phòng, chống bạo lực được triển khai có hiệu quả thì lúc đó gia đình mới được coi là chốn yên bình và hạnh phúc của các thành viên trong gia đình và chúng ta mới có thể đạt được mục tiêu xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, bình đẳng và phát triển bền vững.
4.2 Một số giải pháp
Thứ nhất, nâng cao nhận thực của phụ nữ và cộng đồng về gia đình và phòng chống bạo lực gia đình.
Nhà nước cần nâng cao nhận thức về giới, bình đẳng giới cho người dân cả nam và nữ đều nhận thức được vị trí, vai trò và trách nhiệm của mình trong xã hội. Cũng qua đó nâng cao nhận thức của người dân để họ không coi bạo lực gia đình là chuyện riêng của các gia đình hay là vấn đề cá nhân mà phải nhận thức là vấn đề xã hội và cần giải quyết nó bằng các chính sách và luật pháp thích hợp.
Để làm được điều này, chúng ta cần thường xuyên tổ chức các hoạt động tuyên truyền giáo dục, truyền thông về giới, bình đẳng và hòa nhập giới. Có thể tổ chức các hình thức truyền thông rộng rãi dưới nhiều hình thức cho cán bộ lãnh đạo, các tổ chức đoàn thể, các báo cáo viên từ đó truyền thông xuống hộ gia đình và phụ nữ. Nội dung của các buổi tuyên truyền có thể nói về bình đẳng giới và tình hình bạo lực ở Việt nam cũng như trên thế giới; nguyên nhân, hậu quả của bạo lực gia đình; các hoạt động của của Liên hiệp quốc, chính phủ, phong trào phụ nữ quốc tế và các lực lượng tiến bộ trong việc ngăn chặn bạo lực gia đình và tuyên truyền; giáo dục pháp luật Việt Nam đối với việc xử lý các trường hợp có hành vi bạo lực gia đình.
Thứ hai, Tăng cường hiệu lực pháp luật ở địa phương.
Mặc dù Việt Nam chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến song ngay từ khi thành lập, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng mục tiêu giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình quyền, bình đẳng. Điều này được thể hiện rõ trong các chính sách, văn bản pháp luật đặc biệt là Luật hôn nhân và gia đình nhưng hiện tượng đánh đập, ngược đãi phụ nữ và trẻ em vẫn không ngừng gia tăng.
Vì vậy, các cơ quan tư pháp cần tăng cường giáo dục pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân. Trợ giúp pháp lý tuyên truyền pháp luật, tư vấn cho phụ nữ. Chính quyền địa phương nơi người dân sinh sống cần được trang bị các kỹ năng làm việc cụ thể khi có bạo lực xảy ra, bao gồm công tác cứu giúp nạn nhân và con cái họ, giáo dục trừng trị kẻ phạm tội, nhanh chóng ổn định trật tự an ninh xã hội..
Đặc biệt, pháp luật cần có hình thức trừng trị nghiêm minh đối với những kẻ gây ra hành vi bạo lực. Nhưng trước khi chờ sự can thiệp của luật pháp, nạn nhân bị bạo lực hãy tự cứu mình bằng giải pháp kiên quyến không sống chung với kẻ vũ phu và kêu gọi sự bảo vệ, giúp đỡ của các cơ quan thực thi pháp luật.
Thứ ba, chúng ta cần lập quĩ phòng chống bạo lực gia đình.
Để các chương trình phòng chống bạo lực gia đình có thể triển khai và đại hiệu quả trong thực tiễn, việc xây dựng quĩ phòng chống bạo lực gia đình tại các địa phương là rất cần thiết. Để có nguồn quĩ này, trong đó một mặt xin hỗ trợ từ ngân sách của nhà nước, mặt khác cần huy động mạnh mẽ nguồn lực đóng góp của các cá nhân, các nhà hảo tâm, các tổ chức xã hội và quốc tế. Số tiền gây quĩ này sẽ dành để chi trả cho việc chăm sóc, hỗ trợ và cứu giúp các nạn nhân bị bạo hành trong các chương trình hành động của địa phương. Nếu quĩ phòng chống bạo lực gia đình vận hành có hiệu quả, sẽ giúp các nạn nhân bạo lực đặc biệt là phụ nữ ở nông thôn mạnh dạn tố cáo những kẻ gây ra hành vi bạo lực để giải thoát mình. Bởi lẽ rất nhiều phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ ở nông thôn phải sống chung với nạn bạo lực, có rất nhiều nguyên nhân mà họ không dám tố cáo kẻ gây ra hành vi bạo lực trong đó có một nguyên nhân rất quan trọng là họ bị cô lập về kinh tế và sống phụ thuộc nhiều vào kẻ gây ra hành vi bạo lực.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tăng Hà Nam Anh, “Bạo hành gia đình và gánh nặng xã hội”, Tuổi trẻ online, ngày 15/09/2009.
- Điều khoản 1 của tuyên ngôn về bạo lực đối với phụ nữ, trích từ tài liệu của Hội đồng kinh tế và xã hội 1992.
- Http//tintucvina.com, thế giới gia đình trong tầm tay, “Bạo lực gia đình không còn là chuyện riêng của mỗi gia đình, mục chính trị xã hội, Trần Trung, ngày 17/12/2009.
- Http//longan.gov.vn, Bạo lực gia đình và giải pháp, mục phổ biến Pháp Luật của Thanh Tra tỉnh Long An.
- Http//myopera.com, Thân Trung Dũng, “Bạo lực gia đình – Vấn đề xã hội nghiêm trọng và phổ biến”.
- Lê Thị Phương Mai, “Bạo lực chống lại phụ nữ: hậu quả đối với sức khỏe sinh sản”, Văn phòng hội đồng dân số Hà Nội, hội thảo Giới, ngược đãi phụ nữ và sức khỏe sinh sản, trang 98.
- Tóm tắt của tình hình giới của Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam năm 1995, 2008.
- Thống kê của tòa án nhân dân tối cao về các vụ ly hôn từ năm 2000 đến 2008.
- Thống kê của tổ chức y tế thế giới về bạo lực chống lại phụ nữ, năm 2005, trang 239.